Giấy tờ “ma” lừa bạc tỷ

Thứ tư, 12/03/2014 12:00

(Cadn.com.vn) - Phiên tòa ngày 5-3 của TAND TP Đà Nẵng xét xử Hoàng Thái Ngọc (1981, trú P. Hòa Minh, Q. Liên Chiểu, Đà Nẵng), tuyên phạt 12 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 2 năm tù về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho các nạn nhân.

Cụ thể, trong khoảng thời gian từ tháng 11-2011 đến cuối tháng 4-2012, mặc dù không có đất nhưng Hoàng Thái Ngọc đã gian dối như: đưa ra thông báo bố trí đất, hợp đồng ủy quyền (không còn giá trị sử dụng) và phiếu phân lô đất giả để lừa bán đất cho vợ chồng ông Phạm Anh Tuấn, bà Mai Hồng Phượng (trú tổ 20 P. Phước Mỹ, Q. Sơn Trà, TP Đà Nẵng) để chiếm đoạt số tiền 840 triệu đồng. Tháng 10-2010, Ngọc thỏa thuận bán cho vợ chồng ông Tuấn 1 lô đất đường 7,5m Khu Trung tâm đô thị Tây Bắc (KTTĐTTB) số 7 với giá 450 triệu đồng. Ngọc có trách nhiệm bốc thăm, ra lô và bàn giao đất cụ thể cho ông Tuấn sau 2 tháng. Tin tưởng Ngọc, vợ chồng ông Tuấn đã đặt cọc 20 triệu đồng và sau đó nhiều lần giao tiền cho Ngọc tổng cộng 440 triệu đồng nhưng Ngọc vẫn không có đất để giao.

Các bị cáo: Quý, Ngọc (giữa) và Anh tại phiên tòa.

Do nhiều lần bị ông Tuấn thúc ép đòi giao đất nên cuối năm 2011, Ngọc hứa hẹn sẽ bán cho ông Tuấn lô đất khác cũng đường 7,5m tại KTTĐTTB số 2 với giá 640 triệu đồng. Lỡ “đâm lao phải theo lao” để lấy lại số tiền đã giao trước đó nên ông Tuấn đồng ý với kế hoạch trao đổi của Ngọc. Ngày 6-3-2012, Ngọc giao cho ông Tuấn 1 giấy thông báo bố trí đất tái định cư số 1187/TB-BQL của BQL Dự án hạ tầng giao thông đô thị (DAHTGTĐT) đề ngày 28-9-2010 với nội dung “cấp cho vợ chồng ông Phạm Tồn và bà Nguyễn Thị Giải (trú P. Hòa Minh) và hẹn vợ chồng ông Tuấn đến Phòng công chứng ký hợp đồng ủy quyền sổ công chứng.

Sau đó, Ngọc nhờ Lê Ngọc Quý làm giả  “Phiếu phân lô đất” mang số 1187 với nội dung BQLDAHTGTĐT cấp cho vợ chồng ông Phạm Tồn lô đất số 54 khu B2.20 đường 7,5m thuộc KTTĐTTB số 2 để giao cho ông Tuấn và nhận thêm của ông này 200 triệu đồng. Tổng cộng Ngọc đã lừa đảo chiếm đoạt của vợ chồng ông Tuấn 640 triệu đồng thông qua việc làm “giấy ma”. Thực tế lô đất của vợ chồng ông Tồn mà Ngọc mua trước đó đã được bán sang tay cho nhiều người bằng hình thức ủy quyền và người mua cuối cùng là ông Lê Hồng Sơn (trú P. Thanh Khê Đông, Q. Thanh Khê), vợ chồng ông Sơn đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với  đất số BĐ 651714 ngày 17-2-2011.

Do ông Tuấn nhiều lần thúc ép đòi giao đất nên ngày 17-5-2012, Ngọc tiếp tục hứa sẽ bán cho ông Tuấn nhà và đất của ông Trần Văn Mãn (tại P. Hòa Minh, Q. Liên Chiểu) nhưng chỉ là nhằm kéo dài thời gian vì thực chất nhà và đất này trước đó Ngọc đã bán cho bà Lâm Thị Lệ Hoa.

Một nạn nhân khác bị Ngọc lừa là ông Lê Công Tài (trú đường Trưng Nữ Vương, Q. Hải Châu). Mặc dù không có đất và phiếu đất nhưng tháng 11-2010, Ngọc hứa mua giúp cho ông Tài 1 phiếu đất ở khu Tây Bắc 7, P. Hòa Minh với giá 400 triệu đồng, Ngọc nhận cọc trước 20 triệu đồng, số còn lại người mua sẽ thanh toán sau khi ra công chứng.

Do Ngọc không có  phiếu đất để giao theo thỏa thuận nên  sau đó  Ngọc nhiều lần cam kết sẽ bán cho ông Tài, khi thì 1 lô đất ở khu Tây Bắc 6, lúc thì ở khu Tây Bắc 7, P. Hòa Minh và nhận cọc của ông Tài tổng cộng 480 triệu đồng nhưng thực tế không có đất để giao. Vì vậy, cũng theo “chiêu” đã áp dụng đối với ông Phạm Anh Tuấn, Ngọc nhờ Lê Ngọc Quý làm giả “Phiếu phân lô đất” số 3753 với nội dung: Cty TNHH MTV VLXL và Kinh doanh Nhà Đà Nẵng cấp cho ông Võ Chánh để giao cho ông Tài. Do đây là giấy giả nên ông Tài không thể làm thủ tục nhận đất.

Lê Ngọc Quý (1987, trú P. Hòa Minh) và Trần Nhật Anh (1984, trú P. Hòa Khánh Nam, Q. Liên Chiểu) là chỗ bạn bè, Quý làm nghề in ấn, photocopy, Anh có thời gian giúp việc cho Ngọc nên thường đến chỗ Quý photo giấy tờ. Thông qua Anh, Ngọc đã nhờ Quý làm 10 loại giấy tờ giả, trong đó có 1 thông báo, 1 hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, 2 hợp đồng ủy quyền, 6 phiếu phân lô đất. Do tiếp sức cho hành vi phạm tội của Ngọc nên Anh và Quý cũng bị xét xử về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và mỗi bị cáo phải nhận mức án 2 năm tù.

Nh.Hoàng